Starfoods Exim JSC – Chuyên nông nghiệp và dược liệu sạch

Bạch chỉ – vị thuốc nam quý có tác dụng chữa bệnh thần kỳ

Bạch chỉ là một cây thuốc nam quý, xuất hiện ở những vùng đồi núi cao mát hoặc vùng đồng bằng. Loài cây này có khả năng  tán trừ phong thấp, giảm đau, thông khiếu, tiêu thũng trừ mủ,…Để hiểu rõ hơn về đặc điểm cũng như công dụng của vị thuốc này, các bạn hãy theo dõi bài viết sau nhé!

1.Một số thông tin về cây

Tên gọi và nguồn gốc

Bạch chỉ hay còn có tên gọi khác là Chỉ hương, Bách chiểu, Đỗ nhược, Cửu lý trúc căn, Hòe hoàn, Linh chỉ, Lan hòe, Phương hương, Ly hiêu (Theo cách gọi của Bản Kinh). Ngoài ra còn có một số tên gọi khác như Bạch Cự (Biệt Lục), Thần hiêu (Hòa Hán Dược Khảo), Trạch phần, Phù ly (Ngô Phổ Bản Thảo), Xuyên bạch chỉ, An Bạch chỉ, Hàng bạch chỉ, Vân nam ngưu phòng phong (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Xuyên bạch chỉ, Hương bạch chỉ, Hàng bạch chỉ (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Tên khoa học là Angelica Dahurica Benth. Et Hook. và Angelica Anomala Lallem.

Thuộc họ hoa tán Apiaceae (Umbelliferae)

Bạch chỉ (Radix Angelicae) là rễ phơi hoặc sấy khô của cây bạch chỉ (Angelica Dahurica Benth. Et Hook.) hoặc của cây xuyên bạch chỉ (Angel-ica Anomala Lallem).

Mô tả cây

Cây Bạch chỉ (Angelica Dahurica) còn được gọi là hàng châu bạch chỉ, là một giống cây cỏ sống lâu năm, cao từ 1 – 1,5m. Đường kính thân cây từ 2 – 3cm. Thân rỗng. Phần mặt ngoài có màu tím hồng. Phía dưới thân nhẵn, không có lông nhưng phần phía trên gần cụm hoa thì có lông ngắn. Lá có cuống dài, những lá mọc ở phía dưới to, phiến lá xẻ lông chim từ 2 – 3 lần. Thùy hình trứng hoặc hình trứng dài, có chiều dài từ 2 – 6cm, rộng từ 1 – 3cm, phần mép có răng cưa. Lá mọc phía trên nhỏ hơn. Tất cả cuống lá phát triển thành bẹ ôm lấy thân, hai mặt đều không có lông, trên đường gân của mặt trên lại có lông ngắn. Hoa mọc thành cụm hình tán kép, có chiều dài từ 4 – 8cm, hoa thường mọc ở đầu cành hoặc ở các kẽ lá cuống tán nhỏ dài khoảng 1cm. Hoa có màu trắng, mẫu 5. Quả bế dôi dẹt, hình hơi tròn hoặc hình bầu dục, dài khoảng 6 mm, rộng khoảng 5 – 6mm. Ở những bộ phận như rễ, lá, thân đều có tinh dầu mùi thơm. Mùa hoa quả từ tháng 5 – 7. Giống cây này cho vị hàng châu bạch chỉ hoặc hương bạch chỉ.

Cây xuyên Bạch chỉ (Angelica Anomala) cũng là một giống cây cỏ sống lâu năm nhưng cao hơn cây Bạch chỉ từ 2 – 3cm, đường kính thân cây cũng nhỏ hơn, khoảng chừng 1cm. Lá mọc theo hình so le, xẻ lông chim 3 lần, ở thùy có cuống dài chừng 3cm, những bộ phận khác tương tự cây trên.

Tóm lại cây Bạch chỉ thường có chiều cao thấp hơn so với cây xuyên bạch chỉ, thấp hơn từ 1 – 1,5cm. Thân cây cũng to hơn, phiến của thùy hẹp lại thành cuống trong khi đó xuyên bạch chỉ có thùy mang cuống rõ rệt.

Hình ảnh cây và rễ của cây Bạch chỉ

Phân bố, thu hái và chế biến

Giống cây này đã được di thực vào Việt Nam, theo quan sát cây mọc tốt, có thể sống ở những vùng đồng bằng hoặc vùng núi cao mát mẻ. Nhưng giống thì chỉ để được ở những vùng núi cao, lạnh.

Giống cây này được trồng nhiều ở Tam Đảo, ở đây người ta thường trồng vào tháng 1, 2, đến tháng 4, 5 năm sau thì ra hoa. Song có những cây trồng vào tháng 7,8 năm trước thì đến tháng 4, 5 năm sau cùng ra hoa một lúc với những cây trồng từ tháng 1,2.

Vào mùa thu, khi lá cây úa vàng thì đào lấy rễ, dùng dao chặt toàn thân cây, chỉ để lại khoảng 10cm phần thân, cắt bỏ rễ con, rửa sạch đất. Khi đào tránh làm sây sát lớp vỏ ngoài của rễ cũng như tránh làm gãy rễ. Phân loại củ dựa vào kích thước. Một số nơi cho vào vại có vôi, đậy kín trong vòng 1 tuần rồi mới mang phơi khô. Có nơi lại mang phơi ngay khi mới đào về. Trường hợp trời mưa có thể sấy trong lò, sau đó cạo bỏ đi lớp vỏ bên ngoài. Cũng có nơi cho vào lò xông Lưu hoàng trong vòng 1 ngày đêm đến khi thật chín mềm, khi tới độ ẩm dưới 13% thì Bạch chỉ có màu trắng, những lần sấy sau cho lượng Lưu Hoàng ít hơn.

Bộ phận sử dụng làm thuốc

Rễ củ

Mô tả dược liệu

Rễ bạch chỉ (Angelica dahurica) có hình trụ, đầu trên hơi vuông còn đầu dưới nhỏ. Mặt ngoài có màu nâu nhạt hoặc màu vàng. Có nhiều lớp nhăn dọc. Khi cắt ngang có lớp bần mỏng, mô mềm, vỏ có màu trắng ngà, nhiều bột, bên ngoài xốp hoặc có nhiều điểm màu nâu nhỏ. Có mùi thơm nhưng hơi hắc, vị cay.

Rễ xuyên bạch chỉ (Angelica anomala) cũng có dạng hình trụ. Mặt ngoài có màu vàng nâu hơi nhạt, có lỗ vỏ nằm ngang lồi lên. Mặt cắt ngang có lớp bần mỏng, mô mềm, vỏ có màu trắng trp, nhiều tinh bột, có nhiều điểm màu nâu nhỏ. Có mùi hơi hắc, vị cay hơn so với cây trên.

Bào chế dược liệu

Sau khi hái Bạch chỉ về, cạo sạch lớp vỏ rồi thái nhỏ. Cho vào nồi cùng với Hoàng tinh (Liều lượng bằng nhau), đồ một lúc rồi lấy Bạch chỉ ra phơi khô, khi khô hoàn toàn thì có thể sử dụng.

Hoặc có cách làm khác: Hái về rửa sạch, thái thành từng khúc sau đó trộn với vôi rồi phơi khô. Khi dùng thì sao qua, có thể tẩm giấm để sao hoặc sao cho cháy.

Theo Phương Pháp Bào Chế Đông Dược – Việt Nam: Sau khi hái về rửa qua cho sạch, ủ trong 3 giờ cho mềm rồi thái nhỏ, phơi trong bóng râm đến khi khô thì có thể sử dụng, không sao tẩm gì cả.

Bạch chỉ được sử dụng nhiều trong các bài thuốc Đông y

Thành phần hóa học

Theo nghiên cứu cho thấy trong Bạch chỉ có các hợp chất sau: Oxypeucedanin, Imperatorin, Phelloterin, Isoimperatorin, Iyobyakangelicol, Byak-Angelixin hay Anhydrobyakangelixin có độ chảy từ 108 – 109̊ C, Xanthotoxin, Angelicol, Neobyak Angelicol, Marmesin có độ chảy 189,5̊ C, scopolrtin.

Ngoài ra người ta còn chiết được chất alloizoimperatorin có độ chảy 228 – 230̊ C (thăng hoa) và 5 metoxy-8-andehytpsoralen có độ chảy 215 – 217̊ C. Những chất này không có trong Bạch chỉ nhưng lại xuất hiện trong quá trình chiết xuất từ chất izoimpertorin hoặc chất neobyakangelicol mà sinh ra.

Trong xuyên bạch chỉ chứa chất bergapten, umbelliferon và anomalin có độ chảy từ 105 – 106̊ C.

Một nhà nghiên cứu khác đã lấy từ xuyên bạch chỉ được chừng 0,43% một chất gọi là angelicotoxin, một chất nhựa màu vàng có vị đắng, có tính kích thích. Ngoài ra còn có 0,2% chất byakangelixin, 0,2% chất byakangelicola, axit angelic và tinh dầu.

Tác dụng dược lý

Với liều nhỏ angelicotoxin có tác dụng kích thích sự hưng phấn đối với trung khu vận động huyết quản, trung khu hô hấp và dây thần kinh phế vị. Bên cạnh đó còn làm cho huyết áp tăng cao, nhịp tim đập chậm lại, hơi thở kéo dài hơn, xuất hiện hiện tượng chảy nước dãi và nôn mửa. Khi sử dụng với liều lượng lớn có thể co giật và toàn thân tê liệt. Độc tính của angelicotoxin có thể sánh ngang như chất xicutoxin (cicutoxin), song lại không mạnh bằng.

Năm 1950, Trương Quốc Thanh và Trương Duy Tân nghiên cứu tác dụng kháng sinh của vị thuốc này đối với một số vi trùng thì phát hiện khả năng ức chế sự sinh trưởng của trực khuẩn coli, trùng lỵ Sonner, trùng trực khuẩn mủ xanh (pyocyanus) và vi trùng thổ tả.

Trong một số thí nghiệm khác, người nghiên cứu còn phát hiện ra Bạch chỉ có tác dụng kháng khuẩn với các loại Shigella và Salmonella. Với phương pháp khuyếch tán trong môi trường nuôi cấy sinh vật, nước sắc và cao chiết từ Bạch chỉ đều có tác dụng kháng khuẩn với các chủng phế cầu, tụ cầu vàng, liên cầu,…Ngoài ra còn tác dụng kháng lại Virus.

Tác dụng làm giảm đau: Với liều lượng 10g/kg Bạch chỉ có tác dụng làm giảm đau rõ rệt trên chuột nhắt trắng khi tiến hành thí nghiệm tiêm 6% dung dịch Acid Aceticvào xoang bụng của chuột. Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy tâc dụng làm giảm đau đầu do cảm cúm, đau đầu sau khi sinh, đau thần kinh mặt và đau lợi răng.

Tác dụng chống viêm: Với liều lượng 10g/kg Bạch chỉ có tác dụng chống viêm hiệu quả trên chuột cống trắng khi tiến hành mô hình gây viêm thực nghiệm bằng Kaolin.

Ngoài ra còn được sử dụng trong nhãn khoa học vì loại Pommade được làm từ Bạch chỉ có tác dụng tăng khả năng trị liệu và tránh được tình trạng loét giác mạc do bỏng ánh sáng gây ra. Trong việc điều trị các bệnh về tai, mũi, họng cũng được sử dụng rất nhiều vì bột làm từ Bạch chỉ và Băng phiến có tác dụng điều trị chứng đau đầu, đau răng, thần kinh sinh ba đau.

2.Công dụng và liều dùng

Công dụng:

Chỉ mới thấy dùng trong phạm vi đông y. Đông y coi bạch chỉ là những vị thuốc có tính ôn, vị cay, đi vào 3 kinh phế, vị và đại tràng. Có tác dụng phát biểu khứ phong, thẩm thấp, hoạt huyết bài nùng sinh cơ, giảm đau, dùng để làm thần kinh hưng phấn, làm cho giảm huyết trong toàn thân, vận chuyển máu nhanh chóng, làm thuốc thư giãn. Chữa nhiều bệnh khác nhau như ra mồ hôi, nhức đầu, đau răng, các bệnh về đầu, mặt, xích bạch đới, thông kinh nguyệt. Dùng ngoài có thể chữa sưng vú, ghẻ lở, tràng nhạc, đỡ đau hút mủ.

Bạch chỉ được sử dụng nhiều nhất trong các bài thuốc giảm đau, chữa nhức đuầm cảm maoh, hoa mắt, đau răng, sử dụng làm thuốc cầm máu, đại tiện ra máu hoặc chảy máu cam.

Cây Bạch chỉ xuất hiện nhiều vùng núi cao ở Việt Nam

Liều dùng:

Mỗi ngày sử dụng từ 5 – 10g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, chia làm nhiều lần uống trong ngày. Mỗi lần uống từ 1 – 2g.

Kiêng kỵ:

Những trường hợp sau không nên sử dụng Bạch chỉ:

3.Một số bài thuốc từ Bạch chỉ

Bài thuốc chữa trẻ em nóng sốt:

Cho Bạch chỉ vào nước rồi đun sôi, sau đó để nước ấm thì tắm cho trẻ nhỏ nơi kín gió.

Bài thuốc chữa cảm lạnh:

Bạch chỉ, cam thảo, đậu khấu, thông thảo mỗi thứ 3g, sinh khương 5g, đại táo 6g. Sắc thành nước uống, uống đến khi ra mồ hôi thì ngưng.

Bài thuốc chữa viêm mũi dẫn đến đau đầu:

Bạch chỉ, tân di, thương nhĩ tử mỗi thứ 9g, bạc hà 4,5g. Tán thành bột mịn, mỗi lần uống 3g. Ngày uống từ 2 – 3 lần. Uống liên tục trong vòng 3 – 5 ngày.

Bài thuốc chữa đau nhức mụn nhọt, mưng mủ nhưng chưa vỡ:

Bạch chỉ, xương truật, thành bì mỗi thứ 3g, tạo giác thích 2g, đương quy 4g, ý dĩ 6g. Sắc thành nước uống, ngày một thang, uống liên tục trong 3 ngày.

Bài thuốc chữa đau bụng kinh:

Bạch chỉ, quế chi, can khương, uất kim, bán hạ chế mỗi thứ 8g, Ngưu tất, đan sâm mỗi vị 12g. Sắc uống trong ngày, dùng trước kỳ kinh 5 ngày.

Bài thuốc chữa bế kinh do ứ trệ máu:

Bạch chỉ, quế chi, uất kim, tía tô, nga truật mỗi vị 8g, xuyên khung 10g, ngưu tất, đan sâm mỗi vị 12g. Sắc thành nước uống, ngày 1 thang. Uống trước kỳ kinh nguyệt từ 5 – 7 ngày.

Bài thuốc chữa trị chứng hôi miệng:

Bạch chỉ, Xuyên khung mỗi vị 30g. Tán thành bột mịn rồi trộn thành viên to bằng hạt ngô. Ngày ngậm từ 2 – 3 viên.

Bài thuốc chữa trị đầu phong:

Bạch chỉ, Mang tiêu, Thạch cao, Bạc hà, Uất kim. Tán thành bột mịn, mỗi lần dùng 1 ít, thổi trực tiếp vào mũi.

Hình ảnh những bông hoa Bạch chỉ

Bài thuốc trị đau đầu, đau mắt:

Bạch chỉ 16g, Ô đầu (sống) 4g. Tán thành bột mịn, dùng kết hợp với nước trà, mỗi lần dùng 1 ít.

Bài thuốc trị các chứng phong, chóng mặt, sản hậu sau sinh bị cảm do phong tà, không tỉnh táo:

Hương bạch chỉ. Dùng nước nấu sôi 4 – 5 dạo, tán thành bột sau đó trộn với mật làm thành viên hoàn, to bằng viên đạn. Mỗi lần uống 1 hoàn.

Bài thuốc trị đau nửa đầu:

Bạch chỉ, Thạch cao, Nhũ hương, Tế tân, Một dược (bỏ dầu). Liều lượng các vị bằng nhau. Tán cho nhuyễn rồi thổi trực tiếp vào mũi. Đâu bên phải thì thổi vào bên trái và ngược lại.

Bài thuốc trị mũi chảy nước trong:

Bạch chỉ tán thành một. Sử dụng Hành giã nát, trộn thuốc thành viên hoàn khoảng 4g. Một ngày uống 2 lần, mỗi lần từ 8 -12g, kết hợp cùng trà nóng.

Bài thuốc chữa trị xoang mũi:

Bạch chỉ, Tân di, Phòng phông mỗi thứ 3,2g. Xuyên khung 2g, tế tân 2,8g, Thương nhĩ tử 4,8g, Cam thảo 1,2g. Hòa cùng với nước rồi bôi xung quanh vùng rốn.

Bài thuốc trị thương hàn cảm cúm:

Bạch chỉ 40g, Cam thảo 20g, 3 lát gừng, 3 củ Hành, 1 trái táo, 50 hột Đậu xị. Cho thêm vào 2 chén nước, sắc uống đến khi ra mồ hôi.

Bài thuốc trị đau răng do phong nhiệt:

Bạch chỉ 4g, Chu sa 2g. Tán thành bột mịn rồi trộn cùng mật làm thành viên, to bằng hạt sung. Sát vào chân răng hằng ngày.

Bài thuốc trị các bệnh ở mắt:

Bạch chỉ, Hùng hoàn tán thành bột, trộn cùng với mật làm viên to bằng hạt nhãn, dùng Chu Sa bọc ngoài. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 1 hạt.

Bài thuốc trị tiểu khó do khí:

Bạch chỉ tẩm cùng với giấm rồi phơi khô, chừng 80g. Sau đó tán nhuyễn. Mỗi lần uống  chừng 8g, kết hợp với nước sắc Mộc thông và cam thảo.

Mùa hoa Bạch chỉ bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 7

4.Phân biệt Bạch chỉ với một số cây khác

Trong nhân dân Việt Nam còn sử dụng một số vị thuốc khác với tên gọi là Nam Bạch chỉ. Thực chất đó là rễ của cây mát rừng, còn có tên khoa học là Millettia pulchra Kurz, thuộc họ Cánh Bướm (Papilionaceae). Cây này có đặc điểm là thân nhỏ, cao khoảng từ 1, 5 – 1,8m. Hoa mọc thành từng chùm, có màu tím nhạt. Quả đậu hình đao, cứng và nhẵn. Cây thường mọc hoang ở nhiều tỉnh thành khác nhau như Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Trong dân gian thường sử dụng với một số vị thuốc khác để làm thuốc đau bụng, đi ngoài.

Trong một số tài liệu cổ của Trung Quốc, người ta giới thiệu Bạch chỉ là rễ Angelica gla-bra Makino hoặc Angelica Formosana Bois, thuộc họ hoa Tán. Nhưng những tài liệu mới nhất lại thống nhất những tên gọi như đã giới thiệu ở trên.

 

Exit mobile version