1/ Cây cao lương khương là gì?
a/ Tên khoa học, tên khác
Cao lương khương là cây riềng. Tên gọi này bắt nguồn từ việc đây là một cây họ gừng, mọc nhiều ở vùng Cao Lương. Cây còn được gọi là riềng ấm, riềng núi, cao lương khương, tiểu lương khương, phong khương, galangal, có khá (Thái), kìm sung (Dao). Tên khoa học của cao lương khương là Alpinis officinarum Hance, thuộc họ khoa học là họ Gừng Zingiberaceae.
Cao lương khương hoặc lương khương (Galanga hoặc Phizoma Alpiniae officinarum) chính là phần thân rễ phơi khô của cây riềng. Trong một số tài liệu y học, vị thuốc này còn có một số tên gọi khác như: lương khương, man khương (Bản Thảo Cương Mục), tỷ mục liên lý hoa, mai quang ô lược (Hòa Hán Dược Khảo).
b/ Mô tả cây
Cao lương khương là một cây thân thảo, cao chừng 0,7 – 1,2m. Cây có thân rễ dài hình trụ, mọc bò ngang, đường kính rễ thường từ 12 – 18mm, có thể lên tới 2cm. Thân rễ màu nâu đỏ, chia thành nhiều đốt không đều nhau, phủ nhiều vẩy, phần bị vẩy phủ thường có màu trắng nhạt. Lá riềng không có cuống nhưng có bẹ, hình mác dài, nhẵn. Mỗi lá thường dài khoảng 22 – 40cm, rộng 24mm.
Cụm hoa riềng hình chùy, mọc ở đầu cành với lông măng dài chừng 10cm, các hoa mọc rất sít nhau, có lá bắc nhỏ hình mo, đính trên những gờ nổi ngắn. Tràng hoa hình ống có 3 thùy tù, dài từ 15 – 20mm, rộng từ 4 – 5mm, riêng thùy giữa thường lớn hơn các thùy khác. Bao phấn hình chữ nhật, nhẵn. Nhị lép hình dùi ngắn và tù. Cánh môi hình trứng, dài khoảng 20mm, rộng 15 – 18mm, màu trắng, có vạch đỏ sim. Bầu có lông, nhụy lép 2, hình bản dày hoặc gần như vuông. Quả hình cầu có lông. Hạt có áo hạt. Cây riềng thường có hoa từ tháng 11 đầu tháng 1.
c/ Mọc chủ yếu ở đâu?
Cây riềng mọc ở khắp Ấn Độ, Myanmar, Trung Quốc (Quảng đông, Quảng tây, Vân nam, Đài loan), Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc hoang và được trồng làm thuốc ở khắp cả nước, nhất là ở các tỉnh miền Bắc qua Thừa Thiên – Huế đến Tây Ninh và Bà Rịa – Vũng Tàu.
d/ Bộ phận dùng
Thân rễ hay còn gọi là củ.
e/ Thành phần hóa học
Theo Dược Liệu Việt Nam, trong riềng có từ 0,5 – 1% tinh dầu. Loại tinh dầu này lỏng sền sệt, màu vàng xanh, có mùi long não với thành phần chủ yếu là xineola và metylxinnamat. Ngoài tinh dầu, cao lương khương còn chứa các chất như: một chất dầu có vị cay gọi là galangola và ba chất có tinh thể, không có vị gì, đều là dẫn xuất của flavon. Ba chất đí lần lượt là galangin C15H10O5, kaempferit C16H12O6 (1-3 dioxy-4-metoxyflavonon) và alpinin C17H16O6.
Ngoài ra, theo Trung Dược Học, trong rễ riềng có 0,5 – 1,5% tinh dầu. Thành phần có Methyl Cinnamate, Cadimene, Eugenol, Pinene, Kaempfende, Kaempferol, Quercetin, Isorhamnetin, Galangol, Galangin.
f/ Thu hái chế biến
Có thể thu hái quanh năm. Nhưng riềng thường được đào nhiều nhất vào mùa thu đông hoặc sang xuân trước vụ mưa phùn để tiện phơi sấy. Loại được thồng thì đào tầm tháng 7 – 10. Đào về rửa sạch đất, cắt bỏ lá và rễ con, vẩy lá sau đó cắt thành từng đoạn 4 – 6cm, phơi khô là được (có khi đồ qua mới phơi khô). Khi dùng thì ngâm mềm, xắt lát phơi khô, cũng có trường hợp sao qua rồi dùng vào thuốc thang.
Thân rễ riềng núi có hình viên chùy, tẻ nhánh thô, khoảng 9 – 15mm. Bên ngoài có vòng ngang hình dợn sóng, hình thành bởi lá thoái hóa, màu nâu đỏ. Vùng đỉnh thường có vết thân, mặt hông và mặt bụng có vết rễ nhưng ít, chất cứng, bền, khó gãy. Khi cắt sẽ thấy mặt cắt có màu vàng đỏ, chất xơ, hơi có mùi thơm đặc biệt. Loại cao lương khương có mùi thơm nhỏ, từng đoạn khô, màu vàng nâu, không mốc mọt là loại tốt.
2/ Công dụng của cao lương khương
a/ Theo y học cổ truyền
Cao lương khương có vị cay thơm, tính ấm vào hai kinh tỳ và vị. Thuốc có tác dụng ôn trung, giảm đau, tiêu thức ăn, chữa đau bụng do lạnh, sốt rét, phong thấp, hắc lào, lang ben…. Đối với người cao tuổi, tỳ thận bị hư hàn, tiêu chảy kiết lỵ, tâm vị bạo thống, do khí nộ, do hàn đờm thì cao lương khương sẽ hỗ trợ trị các chứng hàn lạnh kinh niên, tác dụng giống như quế, phụ. Nếu hàn tà phạm vị gây ra các chứng nôn mửa, thương thực do ăn chất sống lạnh sinh hoắc loạn thổ tả thì cũng có thể dùng vị thuốc này để giải quyết.
b/ Theo y học hiện đại
Nước sắc cao lương khương có tác dụng kháng khuẩn, ức chế nhiều loại vi khuẩn như trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn dung huyết, tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn, Anthrax bacillus, song cầu khuẩn viêm phổi, trực khuẩn lao. Thuốc cũng có khả năng cải thiện lưu thông máu, chữa các chứng bệnh như: đau bụng do lạnh, đau dạ dày, sốt rét, phong thấp….
3/ Cách dùng và các bài thuốc dân gian dùng cao lương khương
Bình thường chúng ta vẫn dùng riềng trong một số món ăn hàng ngày để tăng thêm hương vị cho món ăn, kích thích tiêu hóa. Tuy nhiên, nếu muốn phòng trị bệnh hiệu quả thì bạn cần kết hợp với một số vị thuốc có công dụng tương tự. Dưới đây là các bài thuốc dân gian dùng cao lương khương mà bạn có thể tham khảo để áp dụng.
– Chữa đau dạ dày do hư hàn: Người bị đau dạ dày do hư hàn với các triệu chứng đau có thời gian nhất định, gặp lạnh hay đói đau nhiều, ăn uống không ngon, đầy bụng, nôn nước trong, đại tiện lỏng, sợ lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm) có thể dùng bài thuốc gồm cao lương khương, hương phụ mỗi vị 8g; bách hợp, đan sâm mỗi vị 30g; ô dược 10g, đinh hương 7g, sa nhân 4g. Đem tất cả sắc với 3 bát nước còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng liên tục trong 5 ngày là một liệu trình.
– Chữa đau bụng do lạnh: Cao lương khương 20g, nụ sim 8g, búp ổi 60g, tất cả sấy khô, tán thành bột. Ngày uống 3 lần sau ăn, mỗi lần uống 5g với nước sôi để nguội. Hoặc cao lương khương 200g, quế 120g, hậu phác 80g, sấy khô. Mỗi lần lấy 12g, sắc với 200ml nước cho đến khi còn 50ml để uống trong ngày. Dùng liên tục trong 2 – 4 ngày là một liệu trình.
– Trị chứng đầy bụng, khó tiêu: Cao lương khương thái lát mỏng, đem muối chua. Khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. Ngày dùng 2 – 3 lần để đạt hiệu quả tốt nhất. Cách này cũng chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém rất tốt.
– Chữa phong thấp: Cao lương khương, hạt tía tô, vỏ quít mỗi vị 60g, sấy khô, tán nhỏ. Uống ngày 2 lần, mỗi lần dùng 4g, có thể pha với một chén nước sôi để nguội hoặc rượu. Dùng liên tục trong 5 – 7 ngày là một liệu trình.
– Chữa sốt rét: Bột cao lương khương 300g, bột quế khô, bột thảo quả mỗi thứ 100g, tất cả đem trộn với mật ong làm viên hoàn to bằng hạt ngô. Mỗi ngày dùng 15 viên trước khi lên cơn. Hoặc đem riềng tẩm với dầu vừng sao 40g, gừng khô nướng 35g, tất cả tán nhỏ, hòa với mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, uống ngày 15 – 20 viên.
– Chữa lang ben: Cao lương khương 100g, lá và củ chút chít 100g, chanh một quả. Đen 2 vị đầu giã nát rồi vắt nước chanh vào đun nóng. Khi dùng lấy bông y tế thấm dịch thuốc và bôi đều lên vùng da bị tổn thương, ngày bôi 2 lần. Dùng trong 5 – 7 ngày.
– Chữa hắc lào: Cao lương khương già 100g, giã nhỏ, ngâm với 200ml rượu hoặc cồn 70 độ. Ngâm khoảng 1 tuần thì chiết ra dùng dần. Khi dùng, lấy bông y tế thấm và bôi dung dịch cồn nói trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi 2 – 3 lần.
– Chữa ăn không tiêu: Lấy hạt riềng tán nhỏ. Mỗi ngày uống 6 – 10g. Trường hợp buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả cũng có thể dùng bài thuốc này.
– Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng sôi bụng, đại tiện phần lỏng: Cao lương khương 12g, bạch truật 12g, lá ổi 16g, lá lốt 16g, sinh khương 6g. Cho các vị vào ấm đổ 3 bát nước sắc lấy khoảng 1,5 bát. Chia uống làm 2 – 3 lần uống trong ngày.
– Chữa tiêu chảy nhiều lần, phân có lẫn bọt, quấy khóc ở trẻ em: Chuẩn bị hoài sơn 10g, bạch truật 10g, biển đậu 10g, liên nhục 10g, cao lương khương 6g, trần bì 6g, sinh khương 4g, hậu phác 4g. Cho tất cả các vị vào ấm đổ 2 bát nước, sắc còn 1 bát, chia thành 2 – 3 lần uống trong ngày.
– Chữa ngộ độc thức ăn: Nếu bị ngộ độc thức ăn với các biểu hiện đau bụng, nôn mửa, thậm chí đau bụng dữ dội kèm theo đại tiện lỏng, cơ thể có biểu hiện mất nước, rối loại điện giải, huyết áp dưới mức bình thường, mạch nhanh thì có thể lấy cao lương khương 16g, biển đậu 12g, bạch truật 12g, hoàng liên 10g, hoài sơn 16g, liên nhục 12g, thảo quả 10g, quế 6g, chích thảo 10g, sinh khương (nướng) 10g, bán hạ chế 8g. Cho tất cả các vị vào ấm, đổ nước 3 bát, sắc còn khoảng 1,5 bát, chia làm 3 lần uống (cách 2 giờ uống 1 lần).