Starfoods Exim JSC – Chuyên nông nghiệp và dược liệu sạch

Cam thảo có tốt, có nên dùng hàng ngày không?

1/ Cây cam thảo là gì?

a/ Tên khoa học, tên khác

Cam thảo còn có một số tên gọi khác như quốc lão, bắc cam thảo, sinh cam thảo. Cây có tên khoa học là Glycyrrhiza uralensis fish và Glycyrrhixa glabra L (còn được gọi là cam thảo nhẵn), thuộc họ khoa học là họ cánh bướm Fabaceae.

Ngoài ra, trong một số sách thuốc, cam thảo còn có nhiều tên gọi khác như: cam thảo bắc (Dược Liệu Việt Nam), quốc lão, linh thảo, lộ thảo (Bản Kinh), thảo thiệt (Thiệt Tịch Thông Dụng Giản Danh), linh thông (Ký Sự Châu), mỹ thảo, mật cam (Biệt Lục), diêm cam thảo, phấn cam thảo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), điềm thảo (Trung Quốc Dược Học Thực Vật Chí), điềm căn tử (Trung Dược Chí), bổng thảo (Hắc Long Giang Trung Dược), phấn thảo (Quần Phương Phổ).

b/ Mô tả cây

Cây cam thảo là cây thuốc quý, sống lâu năm, cao từ 30 – 100cm. Trong đó loài Glycyrrhiza uralensis fish có thân với lông mềm, ngắn; rễ dài có màu vàng nhạt; lá mọc so le, kép lông chim lẻ, gồm 9 – 17 lá chét hình trứng có đầu nhọn, mép nguyên. Vào mùa hạ hoặc mùa thu thì hoa nở thành chùm ở nách lá, bông hoa tương đối nhỏ, màu túm nhạt, màu tím nhạt, hình cánh bướm dài 14 – 22 mm. Quả là dạng quả đậu cong hình lưỡi liềm, màu nâu đen, có lông dày, dài 3 – 4cm, rộng 6 – 8mm. Bên trong hạt có chứa 2 – 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.

Loài cam thảo nhẵn – tên khoa học là Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Loại cây này thường cao từ 1 – 1,5m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Tuy nhiên, lá cây là lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên, hình trái xoan tù. Hoa là hoa nhỏ màu lơ tím sáng, mọc thành từng chùm dài. Quả cũng là quả đậu thuôn, dẹp, thẳng hoặc hơi cong. Tuy nhiên, quả của cây Glycyrrhiza glabra L. không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa từ 2 – 4 hạt tròn.

Cam thảo là một trong những dược liệu được dùng phổ biến trong y học

c/ Mọc chủ yếu ở đâu?

Đây là cây phổ biến ở vùng Âu – Á ôn đới. Đặc biệt là các nước như Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Apganistan, Iran…. Ở Trung Quốc, cây được trồng nhiều và cho chất lượng tốt ở các vùng Hoa bắc, Tây bắc, Đông bắc Trung Quốc.

Hiện cây đã được di thực vào nước ta. Ban đầu, nước ta nhập giống từ Trung Quốc và Nga, đem về trồng thử nghiệm tại tỉnh Vĩnh Phú cũ (vùng Tam Đảo), Hà Nội, Hải Hưng cũ. Cây trồng được 3 năm thì ra hoa nhưng tỷ lệ kết quả thấp. Đến năm thứ 5 thì cây ra hoa với tỷ lệ kết quả nhiều hơn.

d/ Bộ phận dùng

Bộ phận dùng là rễ – Radix Glycyrrhizae, thường gọi là cam thảo. Theo Dược tài học thì rễ cam thảo hình trụ tròn không phân nhánh, thẳng, dài khoảng 30cm, đường kính từ 0,8 – 2cm. Mặt ngoài dược liệu có màu nâu đất hay đỏ nâu với một số vết của rễ con và nhiều nếp nhăn dọc, lỗ vỏ nằm ngang lồi lên. Khi bẻ thấy mặt bẻ có sợi, mặt cắt nganh thì có màu vàng nhạt, để lộ ra lớn bần mỏng, tầng sinh gỗ và tia tủy tỏa tròn. Khi ngửi thấy mùi đặc biệt, vị ngọt dịu.

Bộ phận dùng thường là rễ phơi khô của cây cam thảo

e/ Thành phần hóa học

Trong rễ của cây cam thảo – Glycyrrhiza uralensis fish có chứa glucid 4,7 – 10,97% và tinh bột 4,17 – 5,92%. Nó cũng chứa nhiều hoạt chất thuộc nhóm sapanosid là glycyrrhizin; thuộc nhóm flavonoid là isoliquiritin, isoliquiritigenin, neoisoliquiritin, liquiritin, liquiritigenin, neo-liquiritin, licurazid. Rễ cam thảo nhẵn – Glycyrrhixa glabra L chứa 20 – 25% tinh bột, 3 – 10% glucose và saccharose, triterpen, các cumarin và các sterol. Dược liệu gồm các hoạt chất nhóm saponosid và flavonoid. Trong đó, nhóm các saponosid có hoạt chất ngọt là glycyrrhizin, acid liquiritic..; nhóm các flavonoid có isoliquiritin, isoliquiritigenin, liquiritin, liquiritingenin, licurasid và các hợp chất oestrogen có nhân sterol.

f/ Thu hái chế biến

Người ta sẽ thu hoạch cam thảo vào khoảng năm thứ năm, tốt nhất là thu hái vào mùa đông khi cây tàn lụi. Bởi lúc này rễ cây sẽ chắc, nặng, có nhiều bột và chất lượng dược liệu thành phẩm cũng tốt hơn. Thu xong, rễ cây sẽ được cắt bỏ những nhánh nhỏ, chải sạch bằng bàn chải, phân thành các loại to – nhỏ khác nhau và phơi khô. Khi khô được 50% thì đem xếp gọn bó thành bó. Sau đó chỉ phơi đầu cắt chứ không phơi cả rễ để vỏ dược liệu giữ nguyên được màu nâu đỏ đẹp mắt.

Cam thảo thường được chế biến dưới 3 dạng chính là: sinh thảo, chích thảo, bột cam thảo. Trong đó:

– Sinh thảo: Đem rễ cây rửa sạch nhanh, đồ mềm, thái thành phiến mỏng 2mm khi còn nóng. Nếu không kịp thái nóng thì nhúng ngay vào nước lã, ủ mềm để thái dễ hơn. Sau đó phơi hoặc sấy cho khô.

– Chích thảo: Sau khi sấy khô, đem tẩm mật (cứ 1kg cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha với 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao vàng thơm. Nếu dùng ít có thể cắt từng khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng. Khi thấy giấy hơi sém thì bỏ giấy, thái lát mỏng.

– Bột cam thảo: Cạo sạch bỏ vỏ ngoài, thái miếng tròn, sấy khô, tán thành bột mịn vừa. Cho bột vào thùng kín hoặc hũ thủy tinh, bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát.

2/ Công dụng của cây cam thảo

a/ Theo y học cổ truyền

Cam thảo có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng ích khí, giải độc, bổ tỳ dưỡng vị, nhuận phế, hóa đàm. Sinh thảo có tác dụng giải độc, tả hoả, thường dùng để chữa cảm, ho, mất tiếng, viêm họng, đau dạ dày, ỉa chảy, ngộ độc, mụn nhọt. Chích thảo (cam thảo tẩm mật sao vàng) thì có tính ấm, có tác dụng bổ (ôn trung) nhuận phế, thường dùng chữa tỳ vị hư nhược, thân thể mệt mỏi, kém ăn, ỉa chảy, khát nước do vị hư, ho do phế hư.

Trong đông y, cảm thảo có tác dụng nhuận phế, thường được dùng để điều hòa các vị thuốc

Ngoài tác dụng nhuận phế, cam thảo thường được dùng để giảm độc tính một số vị thuốc hoặc điều hòa quá trình hấp thu các vị thuốc khác, nhất là các vị thuốc có độc tính, quá nóng hoặc quá lạnh. Đối với viêm loét dạ dày, cam thảo còn có khả năng ức chế quá trình tiết acid dịch vị và histamin, giúp vết loét chóng lành. Cam thảo khi dùng với các vị thuốc tính ấm thì bớt nóng. Dùng với các vị thuốc mát thì bớt lạnh, thuốc “bổ” mà không đột ngột, “tả” cũng không quá mãnh liệt.

b/ Theo y học hiện đại

– Giải độc: Glycyrrhizin và các loại muối (Ca, Na…) trong cam thảo có tác dụng khử độc của thuốc, kim loại; chữa ngộ độc strychnin, cocain chlohydrat, chloralhydrat; ngăn không cho độc tố tác động lên tim, bảo vệ gan trong viêm gan mãn tính; giúp bảo vệ gan trong viêm gan mạn tính, ngăn độc tố tác dụng lên tim. Cam thảo còn có khả năng chống lại các chất độc của thịt cá, nọc rắn, thậm chí là độc tố uốn ván và bạch hầu.

– Điều trị loét dạ dày: Các hợp chất hữu ích trong cam thảo kích thích sự phòng thủ của cơ thể bằng cách thúc đẩy quá trình hoạt động của các tế bào và tăng tiết dịch nhầy dạ dày. Qua đó, ngăn chặn sự hình thành các vết loét. Theo các nghiên cứu thì có tới 91% bệnh nhân thành công trong việc điều trị viêm loét dạ dày bằng cam thảo. Tuy nhiên, việc điều trị viêm loét dạ dày cần được tiếp tục thêm 8 – 16 tuần dù bệnh đã hết hẳn triệu chứng.

– Ngăn ngừa nhiễm vi rút: Thảo dược này giúp tăng cường hệ thống miễn dịch, phòng ngừa vi rút bằng cách kích hoạt các interferon trong cơ thể (được biết interferon là loại protein do tế bào cơ thể sinh ra khi bị vi rút tấn công. Nó có khả năng ngăn không cho vi rút phát triển). Do đó, cam thảo phòng các bệnh do vi rút như herpes môi và herpes sinh dục do virus herpes simplex gây ra rất hiệu quả. Thậm chí, ở châu Âu, cây thuốc này còn được sử dụng rộng rãi để điều trị viêm gan siêu vi, nhất là viêm gan B và C.

– Bảo vệ tim: Cam thảo có thể kiểm soát nồng độ cholesterol trong cơ thể bằng việc tăng lưu lượng mật. Acid mật chính là nhận tố quan trong để loại bỏ cholesterol dư thừa ra khỏi cơ thể. Hơn nữa, các hợp chất hữu ích trong cây còn giúp ngăn chặn quá trình oxy hoá của cholesterol gây hại (LDL) – một nhân tố chính gây ra các bệnh tim mạch.

– Cải thiện chức năng của tuyến thượng thận: Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng hợp chất acid glycyrhizic có trong rễ cây cam thảo có tác dụng tăng cường chức năng của tuyến thượng thận. Nó có thể làm chậm quá trình phân huỷ các hormone cortisol và đảm bảo sự ổn định trong thời gian dài. Được biết, cortisol có đặc tính kháng viêm, thiếu hụt chất này có thể dẫn tới trầm cảm, lo lắng và mệt mỏi mãn tính.

– Làm giảm các triệu chứng thời kỳ mãn kinh: Hợp chất flavonoid và estrogen hoặc kích thích tố nữ được tìm thấy trong cây giúp làm giảm các triệu chứng khó chịu liên quan tới thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh. Thảo dược này cũng có tác dụng giảm đau trước kỳ kinh nguyệt.

– Làm mềm và dịu da: Không chỉ có hương vị thơm ngọt dễ uống, cam thảo còn có tác dụng làm mềm và dịu da. Do đó, nó thường được dùng để phòng và điều trị một số bệnh về da. Loại thảo dược này cũng được biết đến với đặc tính kháng viêm và khả năng hỗ trợ điều trị các bệnh về da như: viêm da thông thường, viêm da dị ứng (chàm), bệnh vảy nến, ngứa và khô da.

3/ Cách dùng và các bài thuốc dân gian dùng cây cam thảo

Người ho lâu ngày có thể dùng cam thảo

Cam thảo được dùng trong đông y để chữa loét dạ dày, ruột, giảm co thắt cơ, giảm tiết acid chlorhydric, chữa bệnh Addison… Bệnh nhân thường được chỉ định ngày dùng 4 – 20g dưới dạng thuốc bột, thuốc hãm, nước nấu và cao mềm. Ngoài ra, thảo dược này còn dùng làm tá dược thuốc viên, thuốc ho, thuốc giải độc. Hoặc làm thuốc chống co thắt trong các nước uống nhuận tràng, làm chất thơm trong các hỗn hợp thuốc xông; dùng để chế nước chiết tinh hay khô; dùng trong mỹ phẩm, tẩm thuốc lá, dùng chế nước uống giải khát, làm mứt kẹo.

Do cam thảo lành tính, không độc nên mọi người có thể tham khảo một số bài thuốc dân gian đơn giản từ cam thảo dược đây để áp dụng khi cần thiết. Tuy nhiên, cần nhớ là người huyết áp thấp, bệnh tiểu đường hay tỳ vị nhiệt, bụng đầy trướng, nôn mửa không nên dùng. Ngoài ra, không kết hợp với đại kích, cam toại, hải tảo, nguyên hoa.

– Chữa ho lao, ho lâu ngày: Áp dụng bài thuốc trong Nam dược thần hiệu là dùng cam thảo nướng 120g tán bột, uống mỗi lần 4g, ngày uống từ 3 – 4 lần.

– Chữa viêm loét dạ dày: Lấy 2 phần cao cam thảo, 1 phần nước uống hòa tan. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê. Uống 1 – 2 tuần thì nghỉ một thời gian rồi mới uống tiếp. Không uống liên tục quá 3 tuần lễ.

– Chữa tâm phế suy nhược: Nếu tâm phế suy nhược với các biểu hiện khó thở, mệt xỉu, mạch nhỏ yếu (huyết áp thấp hoặc hạ đường huyết) thì có thể dùng cam thảo 12g, đương quy 10g, nhị sâm 8g, đem tất cả tán bột. Mỗi lần uống 4g, ngày uống 3 – 4 lần, hoặc sắc uống ngay lúc nguy cấp.

– Chữa mụn nhọt, ngộ độc: Người bệnh có thể dùng cao cam thảo mềm, ngày lấy 1 – 2 thìa cà phê uống.

– Chữa nhiễm độc thức ăn: Dùng sinh cam thảo 9 – 15g, cho vào nồi sắc lấy nước rồi chia làm 3 – 4 lần uống trong 2 giờ. Nếu có sốt thì thêm bột hoàng liên 1g, trộn với nước thuốc uống. Trường hợp nhiễm độc nặng thì dùng cam thảo 30g sắc cô còn 300ml, mỗi 3 – 4 giờ lấy 100ml xông thụt dạ dày và rửa dạ dày, truyền dịch.

Exit mobile version