1/ Cây tía tô là gì?
a/ Tên khoa học, tên khác
Tía tô còn có các tên như é tía, tử tô, lá tử tô, tử tô tử, tô ngạnh, xích tô (gọi là tử, xích tía vì cây có màu tím). Cây có tên khoa học là Folium Perillae Fructescentis, thuộc họ hoa môi (Lamiacae).
b/ Mô tả cây
Tía tô không chỉ là cây gia vị mà còn là cây thuốc nam quý. Cây thuộc nhóm cây thảo mọc hàng năm, cao chừng 0,5 – 1m. Toàn cây có tinh dầu thơm và có lông. Lá tía tô hình trứng, phiến lá dài 4 – 12cm, rộng 2,5 – 10cm, mọc đối, mặt dưới tím tía, có khi hai mặt đều tía, nâu hay màu xanh lục có lông nhám, mép lá có khía răng. Hoa tía tô là dạng hoa nhỏ màu trắng mọc thành xim co ở đầu cành, mọc đối, màu trắng hoặc màu tím, mỗi hoa có 4 tiểu nhị không thò ra ngoài hoa. Quả tía tô là quả là hạch nhỏ, hình cầu, đường kình 1mm, màu nâu nhạt, có mạng.
Có 2 loại tía tô, đó là tía tô mép lá phẳng có màu tía nhạt, ít thơm; còn tía tô mép lá quăn màu tía sẫm, mùi thơm mạnh. Tía tô mép lá quăn (Perilla ocymoides L. var. bicolorlaciniata) có giá trị sử dụng làm thuốc cao hơn.
c/ Mọc chủ yếu ở đâu?
Tía tô được trổng ở khắp nơi ở Việt Nam để lấy lá ăn làm gia vị và làm thuốc. Cây ưa sáng và ẩm, thích hợp với đất thịt, đất phù sa. Cây trồng bằng hạt, chọn ở những cây to khoẻ, không có sâu bệnh. Thời kỳ gieo hạt tốt nhất là sau lập xuân vào tháng 1 – 2 dương lịch. Mỗi hecta cần chừng 20 – 30kg hạt giống. Trong tự nhiên, tía tô ra hoa kết quả nhiều, sau khi quả già, cây tàn lụi, hạt giống phát tán ra xung quanh, đến mùa mưa ẩm năm sau mới nảy mầm. Do đó, ngoài việc được trồng thì cây cũng mọc hoang ở nhiều nơi trong cả nước và châu Á.
d/ Bộ phận dùng
Ngoài việc hái lá bánh tẻ và ngọn non làm gia vị, cây tía tô còn cho các vị thuốc chính như:
- Tử tô tử (tô tử, hắc tô tử – Fructus Perillae) là quả chín phơi hay sấy khô (ta gọi nhầm là hạt) của cây tía tô.
- Tử tô diệp (Folium Perillae) là lá phơi hay sấy khô.
- Tử tô (Herba Perillae) là cành non có mang lá của cây tía tô phơi hay sấy khô.
- Tô ngạnh (tử tô ngạnh – Caulis Perillae) là cành non hoặc cành già phơi hay sấy khô.
e/ Thành phần hóa học
Tía tô chứa 0,3-0,5% tinh dầu (theo trọng lượng khô), citral 20%. Thành phần tinh dầu chủ yếu là perillaldehyd, L-perrilla alcohol, α-pinen, limonen, hydrocumin, còn có β-cargophylen, bergamoten, elsholtziaceton và linalool perillaldehyd…. Hạt chứa protein 23,12%, dầu béo 45,07%, N 10,28%, nước 6,3%, tro 4,64%, acid nicotinic 3,98 mg/ 100 g. Thành phần dầu béo của hạt gồm linoleic 33,6-59,4%, acid linolenic 23,3-49% (một số mẫu dầu còn chứa trên 70% acid linolenic), acid béo chưa no 3,5-7,6%, oleic 3,9-13,8%. Trong đó:
– Chất perilla andehyt có mùi thơm đặc biệt của tía tô. Chất perilla andehyt antioxim ngọt gấp 2.000 lần đường, khó tan trong nước nhưng đun nóng sẽ phân giải. Chất này có độc không được dùng làm chất điều vị nhưng có người dùng làm ngọt thuốc lá.
– Chất màu trong lá tía tô là do este của chất xyanin clorit C27H31016Cl. Ngoài các chất trên, trong tía tô còn chứa acginin C6H14N4O2 và adenin C5H5N5.
– Dầu béo trong hạt tía tô có màu vàng, mùi và vị của dầu lanh (huilede lin), thuộc loại dầu khô, có chỉ số iôt vào loại cao nhất (206), chỉ số xà phòng 189,6 tỷ trọng 0,930. Trước đây, mỗi năm Nhật Bản và Triều Tiên đều sản xuất tới 60.000 tấn dầu này để quét lên dù (làm cho dù không thấm nước) hoặc quét lên các loại giấy không thấm nước.
f/ Thu hái chế biến
Tùy vào mục đích trồng là lấy lá hay lấy hạt mà cách thu hái sẽ có sự thay đổi nhất định như tía tô gieo vào tháng 1 – 2 thì tháng 3 – 4 đã có thể hái lá lần thứ nhất. Lúc hái lá làm thuốc thì người ta sẽ hái lá già, sau khoảng 1 tháng thì hát thêm 1 lần nữa. Sau đợt hái đầu cần chăm sóc, bón phân vào gốc, xới đất ngot. Thông thường một cây chỉ hái được 2 – 3 lần lá.
Nếu cây tía tô sau khi hái lá cứ để nguyên thì đến đầu mùa thu quả sẽ già và thu hoạch được. Nhưng thường tía tô hái lá thì quả sẽ nhỏ, ít hạt, hạt nhỏ và kém chất lượng nên sau khi hái lá người ta thường chặt cây để lấy đất trồng cây khác. Cành cây được chặt sẽ được sơ chế thành vị thuốc tên tô ngạnh. Do đó, hiện những cây dùng để lấy hạt giống hay lấy hạt làm thuốc thì sẽ không hái lá. Về cách sơ chế thì:
– Lá cây được thu hoạch vào mùa hạ, khi cành lá mọc xum xuê, bỏ lá sâu, để riêng lá hoặc nhánh non, loại bỏ tạp chất, phơi trong bóng râm hoặc sấy nhẹ đến khô. Hoặc cũng có thể loại bỏ tạp chất và cành già, phun nước cho mềm, thái vụn, phơi khô.
– Quả hạt thì thu hoạch vào mùa thu, cắt cả cành có hạt mang về phơi hay sấy khô trong mát (tránh phơi nắng to hay sấy ở nhiệt độ cao vì hoạt chất sẽ giảm), rũ lấy hạt, bỏ cành và tạp chất.
– Tử tô tử sao khô thì lấy tử tô tử cho vào chảo, sao nhỏ lửa đến khi có mùi thơm hoặc nổ đều, lấy ra để nguội, khi dùng giã dập.
2/ Công dụng, cách dùng của cây tía tô
– Theo y học cổ truyền: Theo tài liệu cổ thì tía tô có vị cay, tính ôn, vào hai kinh phế và tỳ. Cây thuốc này có tác dụng phát tán phong hàn, lý khí khoan hung; an thai, giải uất, hoá đờm, giải độc của cua cá. Cành không có tác dụng phát biểu, chỉ có tác dụng lý khí nên còn được dùng để chữa các chứng như ngoại cảm phong hàn, nôn mửa, động thai, ngộ độc cua cá. Lá tía tô (tố diệp) có tác dụng làm ra mồ hôi, chữa ho, giúp kích thích tiêu hoá, giải độc, giảm đau, chữa cảm mạo, còn có tác dụng chữa bị ngộ độc nôn mửa, đau bụng do ăn cua cá. Cành tía tô (tử tô tử) có tác dụng chữa ho trừ đờm, tê thấp, hen suyển.
– Theo y học hiện đại: Y học hiện đại đã có một số nghiên cứu chứng minh công dụng của lá tía tô như: Nước sắc và cồn chiết xuất lá tía tô đều có tác dụng giãn mạch ngoài da, kích thích tiết mồ hôi; chất tinh dầu tía tô làm tăng đường huyết, aldehyt trong tía tô có khả năng chống thối và ức chế trung khu thần kinh; tía tô còn có cầm máu, làm giảm chất xuất tiết của phế quản, làm giảm co thắt cơ trơn của phế quản; nước ngâm kiệt lá tía tô có tác dụng ức chế các loại vi trùng như tụ cầu khuẩn, trực khuẩn đại tràng, trực khuẩn lị.
3/ Cách dùng và các bài thuốc dân gian dùng cây tía tô
Nhờ các công dụng cho sức khỏe và tía tô được dùng nhiều trong y học với liều dùng là lá và hạt ngày uống 10g, cành ngày uống 6 – 20g dưới dạng thuốc sắc. Lượng thường dùng nhất trong các bài thuốc là từ 4 – 12g. Có thể dùng độc vị và thuốc tươi gấp nhiều lần tùy tình hình bệnh lý, cách sử dụng và chỉ định của bác sĩ. Bạn có thể tham khảo các bài thuốc chính dùng tía tô như:
– Giảm ốm nghén: Người ốm nghén, thường chán ăn, bị nôn, người mệt mỏi, thèm ăn những thứ chua, chát… thì nên an thai, bổ tỳ, giảm nôn bằng bài thuốc gồm: tía tô 20g, bạch truật 16g, đương quy 16g, hoài sơn 16g, ngải diệp 16g, phục long can 16g, phòng sâm 12g, liên nhục 12g, liên kiều 12g, cam thảo 12g, cẩu tích 12g, đỗ trọng 10g, sơn tra 10g, sinh khương 3 lát, đại táo 5 quả. Sắc uống ngày 1 thang.
– Chữa thai phụ bị đau bụng, đau lưng, ra huyết: Người bệnh lấy lá và cành tía tô 20g, sa sâm 16g, bạch truật 16g, thục địa 16g, hoàng cầm 12g, ngải diệp 12g, đương quy 12g, bạch thược 12g, cam thảo 10g, a giao 6g, gừng nướng cháy 6g, đỗ trọng 10g, phục long can 16g. Sắc uống ngày 1 thang, dùng 7 – 10 ngày liền để an thai, nhuận huyết, chỉ huyết.
– Thai phụ bị phù nề, tiểu ít, tê bì hai chi dưới: Chuẩn bị tía tô 16g, bạch truật 16g, ngũ gia bì 16g, sài hồ 12g, trần bì 12g, ngải diệp 12g, xa tiền 10g, hoài sơn 16g, liên nhục 12g, hương nhu trắng 10g, cao lương khương 10g, thăng ma 10g. Sắc ngày 1 thang, chia nước thuốc 3 lần. Thuốc có công dụng bổ trung, bổ tỳ, thuận khí, thông tiểu.
– Nhiệt thai: Thường có triệu chứng bị nóng trong bụng, cồn cào, nước tiểu đỏ lượng ít, sưng đau lợi răng, ăn uống kém, táo bón, tiêu hóa không thông lợi. Trường hợp này nên dùng lá và cành tía tô 16g, bạch truật 12g, đương quy 16g, chi tử 12g, liên kiều 16g, ngân hoa 10g, rau má 20g, a giao 6g, thục địa 12g, hoài sơn 16g, hoàng cầm 10g, đỗ trọng 10g, liên nhục 12g, khởi tử 12g. Sắc uống ngày 1 thang, liên tục 7 – 8 ngày là một liệu trình.
– Thai phụ bị ho hen, nhiều đờm, khó thở: Để chữa bệnh cần lấy tía tô 16g, cát cánh 16g, kinh giới 12g, rau tần dày lá 12g, cam thảo 12g, mơ muối 10g, lá xương sông 12g, tang bạch bì 10g, bối mẫu 10g, bạch linh 10g, trần bì 10g, bạch quả 10g. Sắc uống ngày 1 thang để thanh phế, trừ phong, tiêu đờm, giảm ho.
– Có thai bị cảm mạo: Nếu trong thời gian mang thai bị cảm mạo thì lấy lá tía tô, lá kinh giới mỗi thứ 1 nắm, cho thêm 2 bát nước vào nồi sắc còn 1 bát uống ấm. Tiếp đó ăn cháo nóng, đập vào bát 1 quả trứng gà tươi (nếu là trứng gà đen càng tốt).
– Chữa cảm lạnh: Nếu bị cảm mạo phong hàn, sốt, gai rét, đau đầu, tức ngực thì lấy lá tía tô 8g, hương phụ 8g, trần bì 6g, cam thảo 4g, gừng 2 lát, sắc nước uống. Có thể kết hợp “nồi xông” bằng cách lấy lá tía tô cùng các lá thơm khác tạo thành nồi lá xông và lau rửa. Xông xong thì lau khô mồ hôi trên cả người rồi đắp chăn nằm nghỉ. Người bệnh cũng có thể nấu cháo gạo tẻ cho ra bát, trộn lá tía tô non thái chỉ, ăn nóng để giải cảm.
– Trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái: Chuẩn bị hạt tía tô 20g tán thành bột, hòa với nước đun sôi để cho nước nguội bớt (còn hơi ấm ấm) thì lọc bỏ bã cho uống. Nếu cẩn thận hơn thì cho bột vào túi vải hãm vào nước sôi hoặc lấy bột hạt tía tô hòa vào cháo, hãm vào nước sôi hay hòa với nước cơm cho trẻ uống.
– Chữa ngoại cảm phong hàn: Nếu ngoại cảm phong hàn có viêm đường hô hấp, ho nhiều, đờm nhiều thì nên dùng bài Tam tử dưỡng thân thang gồm tổ tử (hạt tía tô) 6 – 12g, bạch giới tử – 8g (hạt cải bẹ trắng), la bạc tử (hạt cải củ) 8 – 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
– Chữa ho, hen, đàm suyễn tức ngực, khó thở: Tía tô bổ hư, giáng khí nên dung cho trường hợp ho, hen, đàm suyễn tức ngực, khó thở ở trẻ em, người già, người có thai vừa an toàn, vừa hiệu quả.
– Ngộ độc thức ăn: Nếu bị ngộ độc cua, cá, ốc với các biểu hiện như đau bụng đi ngoài, nôn mửa thì nên lấy lá tía tô đủ dùng, giã lấy nước cốt để uống. Nếu xuất hiện thêm triệu chứng dị ứng như nổi mẩn thì có thể lấy bã đã sắc hoặc lá tươi xoa sát vào vùng da nổi mẩn. Hoặc dùng bài tử tô giải độc thang gồm lá tía tô 10g, gừng tươi 8g, sinh cam thảo 2g. Cho vào nồi cùng 600ml nước, sắc còn 200ml chia 2 – 3 lần trong ngày, uống nóng.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.