1/ Cây cà độc dược là gì?
a/ Tên khoa học, tên khác
Cà độc dược còn được gọi là mạn đà la, cà diên, hìa kía piếu (Dao, cà lục dược (Tày), sùa tùa (H`mông). Cây có tên khoa học là Datura melel, thuộc họ khoa học là họ cà Solanaceae.
Ở nước ta có 3 loại cà độc dược chính là cây cà độc dược với hoa đốm tím, cành và thân tím (Datura metel L. forma violacea), cây cà độc dược với hoa trắng thân xanh, cành xanh (Datura metel L. forma alba) và dạng lai của hai dạng trên.
b/ Mô tả cây
Nhìn chung các dạng cây cà độc dược đều là những cây nhỏ, cao từ 1 – 2m, mọc hàng năm. Toàn thân cây gần như nhẵn và có nhiều bì khổng. Cành non và các bộ phận non trên cây đều có lông tơ ngắn. Thân cây có màu tím hoặc màu xanh tùy theo dạng.
Lá cây là lá đơn, mọc cách, phần gần đầu cảnh có thể mọc đối hoặc mọc vòng. Phiến lá hình trứng rộng từ 4 – 9 cm, dài 9 – 10cm, cuống lá dài 4 – 8cm. Phía đáy lá hơi hẹp lại, nai bên của đáy lá không đều nhau, ngọn lá nhọn. Mép lá ít khi nguyên mà thường hơi xẻ răng cưa (độ 3 – 4 răng cưa) hoặc lượn sóng. Mặt trên lá màu xanh xám, mặt dưới màu xanh nhạt, gân chính và phụ đều có màu xanh hoặc tím tùy theo dạng cây. Mặt lá lúc non có nhiều lông, sau thì rụng dần.
Hoa mạn đà la là hoa đơn mọc ở kẽ lá, cuống lá đài khoảng 1 – 2cm, hoa màu tím hoặc có đốm tím ở trên. Khi hoa héo, phần còn lại sẽ trưởng thành với quả giống hình cái mâm. một phần còn lại trưởng thành với quả giống hình cái mâm. Quả hình cầu với mặt ngoài có gai, đường kính chừng 3cm. Quả non có màu xanh, đến khi chín thì có màu nâu. Quả già sẽ nứt theo 3 – 4 đường hoặc nứt lung tung ở phía trên. Mỗi quả cà độc dược đều có rất nhiều hạt, hạt dài 3-5mm, dày 1mm, hình trứng, màu vàng đen, ở cạnh có nhũng vân nổi lên.
c/ Mọc chủ yếu ở đâu?
Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam, Campuchia, Lào để làm cảnh và làm thuốc. Riêng ở nước ta cây nhiều nhất ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh.
d/ Bộ phận dùng
Bộ phận dùng là lá và hoa (Folium, Flos Daturae).
e/ Thành phần hóa học
Trong lá, hoa, hạt và rễ cây cà độc dược đều có chứa chất hyoxin hay scopolamin C17H21N04. Ngoài ra cây còn có atropin C17H21N03 (atropindl. hyoxynmin) và hyoxyamin.
Tỷ lệ các ancaloit trên sẽ thay đổi tùy vào bộ phận và thời kỳ thu hái dược liệu. Thường thì trong lá là 0,1 – 0,5%, có khi lên tới 0,6 – 0,7%; trong hoa là 0,25 – 0,6%; trong quả là 0,12%, trong hạt là 0,1 – 0,5%, trong rễ là 0,1 – 0,2 %.
f/ Thu hái chế biến
Thu hái lá cây trong tầm từ tháng 4, 5, 6 đến hết tháng 9, 10. Đây là thời gian cây sắp và đang ra hoa. Nếu dùng hoa thì có thể thu hái vào các tháng 8, 9, 10. Cách chế biến cà độc dược rất đơn giản, sau khi thu hái chỉ cần phơi hoặc sấy khô là được.
2/ Công dụng của cà độc dược
– Theo y học cổ truyền: Trong y học cổ truyền, cà độc dược được xem là một trong 50 vị thuốc cơ bản với tên gọi dương kim hoa. Thuốc có vi cay, tính ôn, có độc, vào kinh phế. Có tác dụng khử phong thấp, chữa bệnh hen suyễn. Nước sắc từ dược liệu này được dùng để rửa ở những nơi da hàn thấp, cước khí, tê dại. Được dùng uống theo liều lượng nghiêm ngặt để chữa kinh sợ hoặc có thể thái thành sợi nhỏ, cuộn thành thuốc lá chữa ho do hàn, viêm xoang. Nó cũng được dùng để chống co bóp trong bệnh loét dạ dày, phòng say sóng hoặc nôn mửa khi đi máy bay, chữa ho, hen hoặc dùng ngoài đắp mụn nhọt cho khỏi đau nhức. Tuy nhiên những người thể lực yếu không dùng được.
– Theo y học hiện đại: Khác với y học cổ truyền, y học hiện đại xếp cà độc dược vào nhóm chất độc Bảng A. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tác dụng dược lý của cà độc dược chủ yếu đến từ thành hyoxin và atropine của cây như:
+ Atropin làm cơ vòng của mắt dãn ra, dẫn đến đồng tử dãn, nhãn cầu dẹt lại, áp lực mắt tăng lên; khiến sự tiết nước bọt, mồ hôi, dịch vị, dịch ruột ngừng lại. Đồng thời, nó cũng gây nở khí đạo khi khí đạo bị co thắt và phó giao cảm bị kích thích.
Lúc bình thường, atropin không tác dụng hoặc ít tác động trên nhu động ruột và co thắt ruột. Tuy nhiên, liều độc atropin thậm chí còn tác động lên não làm say, hô hấp tăng, sốt, có khi phát điên, cuối cùng thần kinh trung ương bị ức chế và tê liệt.
+ Hyoxin có tác dụng gần giống atropine nhưng làm dãn đồng tử trong thời gian ngắn hơn. Ngoài ra, khác với atropine ngộ độc hyoxin gây ức chế thần kinh nhiều hơn kích thích. Do đó, hyoxin còn được dùng ở khoa thần kinh để chữa cơn co giật của bệnh nhân Pakinxon hoặc làm thuốc dịu thần kinh, dùng phối hợp với atrpin để chống say phi cơ hoặc tàu thủy.
3/ Cách dùng và các bài thuốc dân gian dùng cà độc dược
Rõ ràng, cà độc dược có độc nhưng nếu dùng đúng thì vẫn là một vị thuốc hiệu quả. Nó thường được dùng dưới các dạng là dạng lá khô, hoa khô, bột lá, bột hoa, cao, cồn. Tuy nhiên, việc dùng cà độc dược phải hết sức thận trọng. Mọi người chỉ nên dùng dược liệu này dưới sự hướng dẫn của bác sĩ có chuyên môn, có chứng chỉ hành nghề. Dù được hướng dẫn cụ thể nhưng khi dùng nếu thấy bất kỳ dấu hiệu ngộ độc nào thì cần dừng ngay và yêu cầu người nhà đưa đến cơ sở y tế gần nhất để được sơ cấp cứu kịp thời.
Các biểu hiện ngộ độc cà độc dược gồm có làm mờ mắt, giãn đồng tử, tim đập nhanh, giãn phế quản, khô môi họng đến mức không nuốt được. Chất độc có tác dụng vào hệ thần kinh nên có thể gây gây chóng mặt, ảo giác và mê sảng. Nếu nặng thì có thể hôn mê, tê liệt và tử vong.
Về giải độc và điều trị thì do ngộ độc cà độc dược chủ yếu là bởi chất atropine nên nếu ngộ độc đường tiêu hóa thì phải nhanh chóng loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể bằng cách gây nôn, rửa dạ dày bằng nước chè đặc (đối với người lớn). Đồng thời, ủ ấm và giữ yên tĩnh cho người bệnh. Nếu vật vã thì có thể dùng thuốc an thần còn trường hợp mệt mỏi, bơ phờ thì kết hợp thuốc trợ sức, theo dõi mạch, huyết áp thường xuyên.
Dân gian cũng lưu truyền bài thuốc trị ngộ độc cà độc dược ở mức độ nhẹ, bệnh nhân còn tỉnh táo hoặc sau cấp cứu bệnh nhân đã qua cơn nguy hiểm gồm vỏ đậu xanh 400g, kim ngân hoa 200g, liên kiều 100g, cam thảo 10g. Đem tất cả các vi thuốc sắc với 3 bát nước, lấy 1 bát. Khi uống thì uống dần từng ngụm làm nhiều lần cho đến khi hết triệu chứng ngộ độc.
Với trường hợp ngộ độc nặng thì cần nhanh chóng đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế và cung cấp các thông tin liên quan đến việc ngộ độc để y bác sĩ có hướng xử lý nhanh chóng, kịp thời.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.