Hổ phách là nhựa của một loài thông cổ hiện nay đã mất giống, có tác dụng trấn kinh an thần, tăng cường tuần hoàn và giải ứ huyết, lợi niệu thông lâm, trị kinh phong, phụ nữ bế kinh, ung nhọt lở độc,…Ngày nay, Hổ phách không chỉ có tác dụng chữa bệnh mà còn được sử dụng như là một vật trang sức quý hiếm. Để hiểu rõ hơn về đặc điểm cũng như công dụng của vị thuốc này, các bạn hãy theo dõi bài viết sau nhé!
1.Một số thông tin về Hổ phách
Tên gọi và nguồn gốc
Hổ phách hay còn được gọi là huyết hổ phách, hắc hổ phách hồng. Theo Bản Thảo Cương Mục còn có tên gọi khác là Minh phách, Hương phách, Giang châu, Lạp phách. Hòa Hán Dược Khỏa lại cho rằng có tên gọi là Đơn phách, Hồng châu, Nam phach, Đại trùng phách. Theo Lôi Công Bào Chích Luận, được gọi là Hoa phách, Thủy phách, Hồ tùng chi, Vật tượng phách. Ngoài ra, Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển lại gọi là Huyết phách, Mao phách, Tây huyết phách, Quang phách, Tây vân phách, Hồng hổ phách, Hổ phách tiết.
Tên khoa học là Amber, succinus, Fossil resin Succinum Ex Carbon. Tên thực vật là Pinuss Spp.
Nguồn gốc: Người ta cho rằng đây là nhựa của một loài thông cổ hiện nay đã mất giống gọi là Pityoxolon succinifer Krauss. Hoặc có thể do một số loài khác tạo thành. Những cây thông này mọc thành rừng xung quanh bờ biển châu Âu, châu Mỹ (Nam Mỹ). Những rừng thông này đã bị vùi dưới biển, dưới đất, trong những mỏ than. Theo một số tài liệu khác cho biết, Hổ phách là hợp chất carbon-hydrogen nhựa cây chôn vùi dưới đất lâu ngày ngưng kết thành từ thực vật họ tùng cổ đại (Pinaceae).
Mô tả
Hổ phách là những cục to nhỏ không đều, có kích thước khác nhau. Thông thường là màu vàng hoặc màu vàng đỏ. Ngoài cùng phủ một lớp mờ, rất cứng rắn, khi vỡ ra vết vỡ tròn nhẵn, mờ hoặc mờ trong, không có vị. Khi chà sát vào miếng vải hoặc miếng len cho nóng thì phát sinh ra điện (Hiện tượng này được Thales phát hiện ra từ năm 600 trước công nguyên. Khi đun nóng tỏa ra một mùi thơm dễ chịu. Cục hổ phách có thể nặng tới 10 kg, không tan trong nước , cho tác dụng với cồn, ête và clorofoc chỉ tan một phần. Cục Hổ phách cứng, dòn, có thể nghiền ra bột, khi đốt ra khói trắng thơm, trường hợp ra khói đen là loại nhựa Thông.
Phân bố
Được sản xuất chủ yếu ở Trung Quốc, tại các tỉnh Quảng Tây, Hà Nam, Liêu Ninh, Vân Nam,…
Thu hoạch
Người ta đào những mỏ than có chứa nó. Có khi người ta nhặt được ở bờ biển do bão táp ngoài biển đã đào những cục hổ phách chìm sâu dưới đáy biển lên, sóng mang vào bờ. Hoặc có khi người ta phải lặn xuống tận đáy biển để mò.
Bộ phận sử dụng làm thuốc
Nhựa cây
Bào chế thuốc
Để sử dụng làm thuốc, Người ta hòa lẫn nước và bột nhân hột Trắc bá, sau đó cho vào nồi, bột Hổ phách vào và nấu trong 2 giờ liền thì xuất hiện một ánh sáng lạ, cuối cùng nghiền thành bột để sử dụng. Ngoài ra người ta còn có cách làm khác là hòa cùng với sữa người sau đó tán thành bột.
Thành phần hóa học
Vị thuốc này chứa rất ít tinh dầu. Khi cất khô, thu được axit sucxinic, có loại Hổ phách ít, có loại lại có nhiều. Do đó người ta thường dựa vào tỉ lệ axit sucxinic để phân biệt các loại hổ phách với nhau.
Ngoài ra, còn được cấu tạo từ 3 chất nhựa : α, β, γ
Nhựa γ còn gọi là sucxin (succin) không tan trong cồn, chiếm 70% trọng lượng của Hổ phách. Sucxin được cấu tạo từ sucxino-resin, không xà phòng hóa dược và phần xà phòng hóa được thành axit sucxinic và sucxinoresinola.
Phần tan trong cồn người ta lấy được axit sucoxyabietic và sucxinnoabic-tolic. Axit sucoxyabietic là một cục ete axit. Khi xà phòng hóa sẽ cho axit sucxinoxynvic, sucxinoabietola và bocneola.
2.Công dụng và liều dùng
Đông y cho rằng có vị ngọt, tính bình, vào 4 kinh tâm, can, phế và bàng quang, có tác dụng an thần, định kinh, lợi tiểu tiện, tán ứ huyết. Sử dụng trong những trường hợp tâm thần bất định, hồi hộp mất ngủ, ngủ hay mê sảng, tiểu tiện ra huyết, chữa mụn nhọt lâu lành. Ngày sử dụng từ 1 đến 3g.
Trong sách cổ Đông y, vị thuốc này làm hao mòn chân khí cho nên những người hỏa suy, thủy thịnh nên dùng. Trong trường hợp những người hỏa thịnh thủy suy không nên dùng.
Trong Tây y, trước kia thường sử dụng làm thuốc chống co thắt dưới hình thức là thuốc xông hay thuốc cồn. Hiện nay chỉ sử dụng làm vật trang sức.
3.Các bài thuốc từ Hổ phách
Bài thuốc trị sau bệnh hư phiền không ngủ:
Hổ phách, Sinh địa, chân châu, Cam thảo mỗi thứ 1 chỉ, Châu sa 2 chỉ, Hoàng liên, Đương quy mỗi thứ 3 chỉ. Nghiền tất cả thành bột, hồ cùng gạo làm viên hoàn, xỡ bằng hạt bắp. Uống sau bữa ăn, mỗi lần 30 viên.
Bài thuốc trị hỏa kinh tâm, di vào tiểu đường, tiểu tiện lâm trọc hoặc rít hoặc đau:
Hổ phách, Mộc thông mỗi thứ 1 chỉ, Đơn sâm, Đơn bì mỗi thứ 2 chỉ.Thiên đông, Mạch đông mỗi thứ 1 chỉ 5 phân, Sanh địa 5 chỉ, Cam thảo ngọn 5 phân, Đạm trúc diệp 20 lá, Đăng tâm 3 xích (thước)
Bài thuốc chữa thần chí không yên, người hay mệt mỏi:
Hổ phách 4g, Nhũ hương 63g, chu sa 2g, Nhân sâm, phục linh, phục thần mỗi thứ 12g, Nam tinh, Viễn chí, Xương bồ mỗi thứ 8g. Nghiền thành bột, làm thành viên hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g.
Bài thuốc chữa động kinh:
Hổ phách, chu sa mỗi thứ 2g, Nam tinh chế 4g. Nghiền thành bột mịn, làm thành viên hoàn, ngày uống 2 lần.
Bài thuốc lợi niệu thông lâm, miệng khát, bí tiểu, tiểu tiện ra máu có nóng buốt:
Hổ phách 2g, Biển súc, Mộc thông mỗi thứ 8g, Trư linh 12g. Nghiền thành bột, ngày chia 2 lần uống.
Bài thuốc trừ ứ, giảm đau, trị máu tụ ứ do thương tích, bị ứ tụ máu sau khi sinh gây đau bụng, bụng nổi cục, tích tụ lại, phụ nữ bị tắc kinh, kinh nguyệt không thông:
Hổ phách 2g, Nga truật, Đương quy, Ô dược mỗi thứ 12g. Nghiền thành bột, ngày uống từ 2 – 3 lần, mỗi lần 8g.
Bài thuốc chữa bí đái ở trẻ:
Hổ phách 30g tán thành bột, nấu cùng 4 thăng nước, Hành tăm 10 củ, sắc đến khi còn 3 thăng nước thì bỏ vào 6g bột Hổ phách để uống nóng.
Bài thuốc trị các loại sỏi sạn bàng quang:
Hổ phách 6g tán thành bột, Xạ hương một ít. Uống với nước sôi nguội hoặc có thể sắc với nước Thuyên thảo. Đối với người già, người suy nhược cơ thể uống với nước sắc Nhân sâm hoặc hòa cùng mật làm thành viên, uống cùng với nước sắc Phục linh.
Bài thuốc chữa động kinh ở trẻ nhỏ:
Hổ phách, Đơn sa liều lượng bằng nhau, Toàn yết 1 con tán thành bột. Mỗi lần uống 3g kết hợp cùng nước sắc Mạch môn đông.
Bài thuốc trị tiểu tiện ra huyết:
Hổ phách tán thành bột, mỗi lần uống 6g cùng với nước sắc Đăng tâm.
Bài thuốc trị đàn bà đau bụng có khối u, chóng mặt sau khi sinh, trưng hà:
Hổ phách, Kinh tam, Miết giáp mỗi thứ 30g, Diên hồ, Một dược mỗi thứ nửa lượng, Đại hoàng thù 6 thù, sao lên, tán thành bột. Uống với rượu, mỗi lần 9g. Uống khi đói.
Bài thuốc chữa đau mắt đỏ, mắt có màng mây:
Hổ phách, Trân châu, Nhân trảo, Mã não, san hô.
Bài thuốc chữa thần chí bất định, mệt mỏi hay quên:
Hổ phách 3g, Đảng sâm 9g, Nam tinh, Viễn chí, Xương bồ mỗi thứ 6g, Phục linh, Phục thần mỗi thứ 9g, Nhân sâm nhũ 30g, Châu sa 5 phân. Làm thành viên hoàn, ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 6g.
Bài thuốc chữa tiểu tiện ra máu, tiểu ra sỏi:
Hổ phách 5 phân, Biển súc, Mộc thông mỗi vị 6g, Trư linh 9g. Tán thành bột để dùng, mỗi ngày uống 2 lần, uống cùng nước nóng.
Bài thuốc chữa khí trệ do ứ huyết, kinh nguyệt không thông:
Hổ phách 5 phân, Nga truật, Đương quy, Ô dước mỗi thứ 9g. Tán thành bột uống, ngày uống từ 2 – 3 lần, mỗi lần 6g.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.